Tìm hiểu giá trị thặng dư là gì? Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là gì? Các bạn có thể chuẩn bị kỹ hơn trên hành trình chinh phục tri thức đó của mình qua một số chia sẻ mà farawebsite.org gửi tới dưới đây về kiến thức giá trị thặng dư, các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư hữu ích.
I. Khái niệm giá trị thặng dư là gì
Trong kinh tế học, giá trị còn lại là một ước tính về giá trị tiền tệ mà một tài sản sẽ có sau khi kết thúc thời gian sử dụng của nó. Theo quan điểm triết học, giá trị thặng dư là giá trị do sức lao động làm ra tạo ra, vượt quá giá trị sức lao động do nhà tư bản ấn định.
Để hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải bỏ tiền ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Mục đích cuối cùng là thu được lượng thặng dư (dư thừa) vượt quá số lượng đã chi ra trong quá trình sản xuất. Lượng thặng dư này là giá trị thặng dư. Giả sử một công nhân tạo ra 1000 đồng trong một giờ.
Sau giờ thứ hai, với nội dung công việc và cơ số lao động như giờ thứ nhất thì người thợ đó thu được 1100 đồng. 100 đồng chênh lệch là giá trị thặng dư của sức lao động.
II. Ý nghĩa của giá trị thặng dư
Trong kế toán, khái niệm này thường được sử dụng để tính khấu hao của một tài sản. Vì đây là giá trị cuối cùng của tài sản nên phải trừ vào giá mua để xác định tổng các khoản khấu hao.
Sau đó, sử dụng phương pháp đường thẳng, chia số này cho thời gian sử dụng hữu ích (năm) để tính khấu hao được ghi nhận hàng năm. Khái niệm này cũng thường được sử dụng trong các thủ tục đánh giá.
Trong tài chính, giá trị còn lại được sử dụng để xác định giá trị của dòng tiền mà công ty tạo ra trong kỳ được sử dụng để dự báo. Giả sử công ty vẫn đang hoạt động, nếu dự báo là 10 năm thì bạn nên đánh giá dòng tiền dự kiến cho các năm còn lại.
Trong trường hợp này, chúng được chiết khấu để thu được giá trị hiện tại ròng và được cộng vào giá trị thị trường của dự án hoặc công ty.
III. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
Để sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì tư liệu sản xuất và sức lao động do nhà tư bản mua nên trong quá trình sản xuất, người lao động làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị gia tăng cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt đến một trình độ nhất định. Chỉ mất một phần nhỏ số ngày làm việc mà người làm công ăn lương đã tạo ra giá trị bằng giá trị sức lao động của mình.
Bằng sức lao động cụ thể của mình, người lao động sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của mình vào sản phẩm. Và bằng lao động trừu tượng, người lao động tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, và phần lớn nó được gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị của hàng hoá sản xuất ra (W) bao gồm hai bộ phận: giá trị của tư liệu sản xuất hao phí (giá trị cũ, ký hiệu c) và giá trị mới (v m), được lao động cụ thể bảo toàn và chuyển sang sản phẩm. Cái được tạo ra bởi sức lao động trừu tượng của người lao động (lớn hơn giá trị của hàng hoá sức lao động).
Ngoài giá trị sức lao động hàng hoá mà nhà tư bản thu được mà không phải trả công cho người lao động, một phần giá trị mới do lao động trong nước tạo ra được gọi là giá trị thặng dư (m). Do đó, sinh kế và lao động là nguồn tạo ra giá trị thặng dư.
IV. Bản chất của thặng dư
Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ của nền kinh tế nước ta, đường lối lạc hậu, giáo điều và khắc kỷ sẽ không thể xóa bỏ ngay và sạch quan hệ bóc lột. Nền kinh tế càng phát triển, chúng ta càng hiểu rõ rằng, chừng nào quan hệ bóc lột có tác dụng giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì chúng ta phải chấp nhận sự tồn tại của chúng.
Thứ hai, trong thực tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án đều tìm cách định lượng rõ ràng, máy móc và chặt chẽ mức độ lợi dụng trong xây dựng chính sách.
Nó xa rời thực tế và không khả thi. Điều thuyết phục hơn ngày nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước khi được thể chế hóa thành các bộ luật không chỉ góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà còn coi pháp luật là công cụ, cơ sở để phối hợp thực hiện.
Người tuân thủ pháp luật được xã hội thừa nhận và tôn trọng theo phương châm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vì con người.
Thứ ba, một mặt, cũng cần phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động bằng pháp luật và có chế tài rất cụ thể để đảm bảo tính công khai, minh bạch và bền vững. Xung đột lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, và phương pháp hòa giải những xung đột đó để tránh những xung đột không đáng có cũng là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện qua bản chất của chế độ mới.
Bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ lao động – quản lý, quyền được pháp luật bảo vệ, bảo đảm sử dụng hợp lý các quan hệ bóc lột trong hoàn cảnh hiện nay, đồng thời là đóng góp cơ bản nhất vào quá trình hoàn thiện. Xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm cơ bản và trọng tâm nhất của kinh tế chính trị học Mác – Lênin. Dưới chủ nghĩa tư bản, phương tiện tích lũy của cải dựa trên sự bóc lột công sức của người lao động. Cho đến nay, giá trị thặng dư không bị mất đi. Chúng tôi mong rằng qua bài viết này, bạn sẽ có thêm kiến thức để hiểu thặng dư là gì. Giá trị thặng dư là gì? Các yếu tố ảnh hưởng đến bản chất và giá trị còn lại.